Lê Duẩn
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lê Duẩn |
Tổng Bí thư Lê Duẩn (1907-1986) |
Bí thư Thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam |
Nhiệm kỳ |
10 tháng 9, 1960 – 20 tháng 12, 1976
16 năm, 101 ngày |
Tiền nhiệm |
Hồ Chí Minh (tạm quyền Tổng bí thư) |
Kế nhiệm |
Chức vụ được thay thế |
Khu vực |
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa |
Tổng Bí thư Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam |
Nhiệm kỳ |
20 tháng 12, 1976 – 10 tháng 7, 1986
9 năm, 202 ngày |
Tiền nhiệm |
chức vụ được tái lập |
Kế nhiệm |
Trường Chinh |
Khu vực |
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam |
Bí thư Quân ủy Trung ương |
Nhiệm kỳ |
1978 – 1984 |
Tiền nhiệm |
Võ Nguyên Giáp |
Kế nhiệm |
Văn Tiến Dũng |
Sinh |
7 tháng 4, 1907
Triệu Đông, Triệu Phong, Quảng Trị |
Mất |
10 tháng 7, 1986 (79 tuổi)
Hà Nội, Việt Nam |
Lê Duẩn (
1907–
1986) là
Bí thư Thứ nhất Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam từ
1960 đến
1976,
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
từ 1976 đến 1986. Ông là Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam có tổng
thời gian tại vị lâu nhất với 25 năm, 303 ngày. Từ 1960 cho đến khi qua
đời năm 1986, có một ảnh hưởng chính trị rất lớn tại Bắc Việt và ở Việt
Nam sau 1975, khi hai miền thống nhất
[1] ông cũng đã xác lập quyền uy tối thượng của mình tại Việt Nam trong những năm tháng còn tại vị
[2].
Lê Duẩn chính là người đã vạch ra chiến lược cách mạng ở miền Nam Việt Nam với tác phẩm nổi tiếng
Đề cương cách mạng miền Nam[3].
Từ bản đề cương này, hàng loạt phong trào bạo động ở miền Nam nổ ra dọn
đường cho quân đội Bắc Việt tấn công và đánh chiếm Sài Gòn vào năm 1975
kết thúc
Chiến tranh Việt Nam.
Cuộc đời và sự nghiệp
Lê Duẩn tên thật là
Lê Văn Nhuận, sinh ngày
7 tháng 4 năm
1907, tại làng
Bích La, xã
Triệu Đông, huyện
Triệu Phong, tỉnh
Quảng Trị trong một gia đình nông dân.
[4]
Cha ông là Lê Hiệp, làm nghề mộc. Mẹ ông là Võ Thị Đạo, làm ruộng. Sau
đó ông theo gia đình về sinh sống tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành cùng
huyện, ở bên kia dòng
sông Thạch Hãn. Khu lưu niệm Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn hiện nay được xây dựng tại làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành.
Giai đoạn trước 1945
Năm 1920 ông học hết Tiểu học. Sau đó ông lên tỉnh học Trung học được 1 năm thì nghỉ vì hoàn cảnh gia đình khó khăn.
[4]
Tháng 5 năm
1926, ông làm ở Sở Hỏa xa Đà Nẵng.
Năm
1927, nhân viên thư ký đề pô Sở Hỏa xa Đông Dương tại
Hà Nội.
Năm
1928, ông tham gia
Tân Việt Cách mạng Đảng.
Năm
1929, ông tham gia
Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội.
Năm
1930, ông gia nhập
Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm
1931, ông là Ủy viên Ban tuyên huấn Xứ ủy
Bắc Kỳ.
Ngày
20 tháng 4 năm 1931, ông bị thực dân
Pháp bắt tại
Hải Phòng, bị kết án 20 năm tù, bị giam ở các nhà tù
Hỏa Lò,
Sơn La và
Côn Đảo.
Năm
1936, ông được trả tự do, tiếp tục hoạt động cách mạng ở Trung Kỳ. Năm
1937, làm Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ.
Năm
1939, ông được bầu vào Ban thường vụ Trung ương Đảng. Cuối năm 1939, tham dự Hội nghị Trung ương lần thứ 6.
Năm
1940, bị thực dân Pháp bắt tại
Sài Gòn, bị kết án 10 năm tù và bị đày ra
Côn Đảo lần thứ 2. Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được đón về đất liền.
Giai đoạn 1945 - 1957
Năm
1946, ông được cử làm việc bên cạnh Chủ tịch
Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh.
Từ 1946 đến
1954, ông được cử giữ chức vụ Bí thư
Xứ ủy Nam Bộ (sau đổi thành
Trung ương Cục miền Nam). Chức vụ chính quyền của ông chỉ là Trưởng phòng dân quân, trong Bộ Tư lệnh Nam Bộ do
Nguyễn Bình làm Tư lệnh.
Năm 1951, tại
Đại hội Đảng lần thứ II, ông được bầu vào
Ban Chấp hành Trung ương và
Bộ Chính trị. Năm 1952 ông ra Việt Bắc họp Trung ương và được Hồ Chí Minh giữ lại làm phụ tá đến đầu năm 1954.
Từ 1954 đến 1957, ông được phân công ở lại miền Nam lãnh đạo cách mạng miền Nam.
Giai đoạn 1957 - 1975
Theo lời kể của con trai Lê Duẩn, Hồ Chủ tịch đã chọn ông là người
lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng ở miền Nam, vì ông là người vừa nắm rõ đường
lối của Trung ương vừa có trình độ lý luận, hiểu chủ nghĩa Mác. Chiến
trường Nam bộ ngày ấy vừa xa xôi vừa phức tạp, để có một sự chỉ đạo
thống nhất từ Trung ương, phải cần một người am hiểu cả địa thế lẫn lòng
dân. Vì vậy năm 1957, Hồ Chủ tịch đã gọi ông ra Hà Nội gấp và nhanh
nhất có thể để trực tiếp giúp điều hành công việc chung của Đảng.
[5]
Cuối năm 1957, ông ra Hà Nội, vào Ban Bí thư Trung ương Đảng, chủ trì
công việc của Ban Bí thư và là Phó Ban chuẩn bị văn kiện Đại hội toàn
quốc lần thứ III của Đảng.
Tháng 9/1960, tại
Đại hội toàn quốc lần thứ III của
Đảng Lao động Việt Nam, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, giữ chức Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương.
Cùng với quân sự là ngoại giao, ông rất chú ý đàm phán Paris. Ông có nói với ông Lê Đức Thọ rằng:
"Anh sang bên đó, một điều không được thay đổi là Mỹ rút và mình không rút". [6][7]
Giai đoạn 1975 - 1986
Tại các
Đại hội toàn quốc lần thứ IV (12/1976) và
lần thứ V
(3/1982), ông tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ
Chính trị, giữ chức Tổng Bí thư đến khi mất. Ông cũng đảm nhiệm chức Bí
thư
Quân ủy Trung ương từ năm 1978 đến năm 1984.
Trong thời gian ông nắm quyền cao nhất Việt Nam từ năm 1975 đã xảy ra hai cuộc chiến tranh:
Chiến tranh biên giới Tây Nam và
Chiến tranh biên giới phía Bắc. Ông đã lãnh đạo đất nước vượt qua giai đoạn khó khăn này, thành công trong việc tiêu diệt chế độ
Khmer Đỏ ở Campuchia và ngăn chặn được quân Trung Quốc ở phía Bắc.
Tuy nhiên bên cạnh những thành công về quốc phòng, Ban Chấp hành TW
do ông đứng đầu đã đề ra các đường lối sai lầm về kinh tế, và hậu quả
của các cuộc chiến tranh khiến kinh tế lâm vào khủng hoảng, Việt Nam bị
cô lập trong suốt giai đoạn 1976-1986.
Từ Đại hội V do sức khỏe yếu, Trung ương Đảng giao bớt một số quyền của ông cho
Trường Chinh.
Ông là đại biểu
Quốc hội từ khóa II đến khóa VII.
Ông được tặng thưởng
Huân chương Sao Vàng và nhiều huân chương khác.
Ông qua đời ngày
10 tháng 7 năm
1986 tại Hà Nội.
Gia đình
Ông có hai người vợ:
- Bà Lê Thị Sương (25 tháng 12 năm 1910 - 6 tháng 8 năm 2008)[8] kết hôn năm 1929 ở quê. Có bốn người con:
- Lê Hãn (sinh 1929), tên thường dùng là Lê Thạch Hãn, Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam,
nguyên Cục trưởng Cục Quản lý các nhà trường Quân đội, Tư lệnh Bộ Tư
lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã nghỉ hưu; Ông Lê Hãn cưới bà
Nguyễn Khánh Nam (con gái đầu lòng của ông Nguyễn Khánh Mỹ, Vụ trưởng Vụ
khu vực I, phụ trách các nước XHCN, Bộ Ngoại thương lúc bấy giờ - NV)
và có 3 người con:Ông Lê Khánh Hải hiện là Thứ trưởng thường trực bộ
VHTT và Du lịch,Ông Lê Khánh Hưng và Bà Lê Ngọc Hiếu.
- Lê Thị Cừ có chồng là Lê Bá Tôn (Cán bộ lãnh đạo của Bộ Công nghiệp nặng).
- Lê Tuyết Hồng có chồng là Giáo sư, Tiến sĩ Hồ Ngọc Đại;
- Lê Thị Diệu Muội (1940-2008), Phó Giáo sư, Tiến sĩ sinh vật học.
- Bà Nguyễn Thụy Nga (tên thường gọi Nguyễn Thị Vân hoặc Bảy Vân)[9], kết hôn năm 1950 tại miền Tây Nam Bộ, do Lê Đức Thọ làm mối, Phạm Hùng
làm chủ hôn. Sau 1975, bà Nga làm Phó ban Tuyên Giáo Tỉnh ủy An Giang,
Phó Tổng Biên tập Phụ trách Hành chánh trị sự của Báo Sài Gòn Giải
phóng. Hiện bà sống ở Thành phố Hồ Chí Minh. Có ba người con:
- Lê Vũ Anh, kết hôn giáo sư toán học Viktor Maslov người Nga ở Moskva,
mất năm 1981 do băng huyết khi sinh đứa con thứ ba (là con trai); cả 3
người con của bà sau này đều lớn lên và ăn học ở Nga, nhưng hiện tại đều
làm việc tại Anh.
- Lê Kiên Thành (sinh 1955), học kỹ sư hàng không tại Liên xô, sau đó
là phó tiến sĩ vật lý. Khi về nước chuyển ngành sang kinh doanh, từng là
Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Kỹ thương Techcombank, hiện là Chủ tịch HĐQT
Công ty cổ phần Xây dựng và phát triển đô thị; Chủ tịch HĐQT Công ty CP
Chế biến Thực phẩm Thái Minh; chủ một sân gôn và là Phó Chủ tịch thường
trực Hội Gôn Việt nam. Ông còn là thành viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt nam TP Hồ Chí Minh.
- Lê Kiên Trung (sinh 1958), Cục trưởng Cục Hải quan Thành phố Hồ Chí
Minh (từ tháng 12 năm 2007). Hiện là Thiếu tướng, Phó Tổng cục trưởng
Tổng Cục An ninh II - Bộ Công an (2011).
Phát ngôn
“ |
Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc[10] |
” |
- Lúc sinh thời, nhân dịp Tết 1976, Lê Duẩn từng tuyên bố rằng:
“ |
Trong vòng mười năm nữa, mỗi gia đình ở Việt Nam sẽ có một radio, một TV và một tủ lạnh |
” |
|
- Nhắc đến mẹ mình, ông nói:
“ |
"Tôi thương mẹ tôi, vì vậy bây giờ ở Hà Nội ngày nào tôi cũng ăn thêm vài củ khoai lang để nhớ mẹ tôi…"[12] |
” |
- Năm 1976, khi về thăm quê ở làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành, huyện
Triệu Phong, Quảng Trị, khi thấy người dân đang luộc khoai mì đón Tết
ông nói:
“ |
"Mồng 1 tết mà tôi đến
thăm nhà nào cũng thấy luộc sắn. Bà con ta còn nghèo quá! Trong đời hoạt
động cách mạng, tôi đã chịu nghèo khổ, nhưng bây giờ đất nước đã được
thống nhất, phải lo làm sao để cho dân giàu lên. Phấn đấu để đồng bào
ta, các ông bà già, trẻ con mỗi bữa có một quả trứng, một cốc sữa mà rất
khó."[12] |
” |
- Năm 1976, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn tuyên bố:
“ |
"Chế độ ta là chế độ
chuyên chính vô sản. Chuyên chính trước hết phải là đường lối của giai
cấp vô sản. Cốt tủy của chuyên chính vô sản là ở đó chứ không phải là ở
chỗ sử dụng bạo lực. Đường lối đó là sự kết hợp lý luận Mác - Lê Nin với
thực tiễn cách mạng của nước mình. Đường lối đó là khoa học nhất, là
đúng quy luật, là bắt buộc. Đường lối đó không hề nhân nhượng với ai,
chia sẻ với ai và hợp tác với ai cả. Đó là chuyên chính. Đường lối đó
là: nhất thiết phải xóa bỏ giai cấp bóc lột, xóa bỏ chế độ sản xuất cá
thể, xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Nhất thiết phải làm thế,
không cho phép ai đi ngược lại. Đó là chuyên chính. Đường lối đó nhất
thiết phải là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Không ai được chống lại.
Đó là chuyên chính. Đường lối đó là đường lối của giai cấp công nhân,
không ai được chống lại. Ai chống lại những cái đó thì bị bắt. Đó là
chuyên chính." |
” |
-
- (Phát biểu của Lê Duẩn tại Hội nghị Trung ương 25, Văn Kiện Đảng
Toàn tập, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, tập 37- 1976, trang 403-404)
- Ngày 13-3-1977, tại trường Nguyễn Ái Quốc, Tổng Bí thư Lê Duẩn nói:
“ |
“Loài người cho đến nay đã
có ba phát minh vĩ đại có ý nghĩa bước ngoặt của lịch sử. Thứ nhất là
tìm ra lửa. Thứ hai là tìm ra cách sử dụng kim khí. Thứ ba là làm chủ
tập thể.” |
” |
-
- (“Bài nói của đồng chí Lê Duẩn tại lớp chính trị Trung cao cấp ngày
13-3-1977 tại trường Nguyễn Ái Quốc”, “Hồ sơ lãnh tụ Lê Duẩn”, lưu trữ
tại kho Lưu trữ Học viện Quốc gia Hồ Chí Minh)
Đánh giá
Theo quan điểm của các nhà lãnh đạo đảng và các học giả trong nước
đóng góp nổi bật của ông là năm 1939, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Cừ,
ông đã góp phần cho sự ra đời của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Ban
Chấp hành Trung ương (11-1939) - chuyển hướng đấu tranh cách mạng; chỉ
đạo kháng Pháp tại miền nam trong đó đáng chú ý là "
Xứ ủy Nam Bộ dưới
sự lãnh đạo của Lê Duẩn thực hiện chính sách ruộng đất “người nông dân
có ruộng cày” không phải thông qua cuộc phát động tước đoạt bằng bạo
lực, tiến hành đấu tố, cưỡng bức địa chủ; mà bằng chủ trương và biện
pháp đúng đắn, thích hợp với hoàn cảnh cụ thể của Nam Bộ lúc ấy"
[13], đặc biệt vai trò lớn của ông trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ
của Việt Nam. Chính ông là người viết "Đề cương cách mạng Miền Nam'
(sau được thể hiện đầy đủ trong Nghị quyết 15 (Khóa Hai) của đảng tháng
1-1959). Theo ông
Võ Văn Kiệt: "
Đề
cương Cách mạng miền Nam” được đồng chí Lê Duẩn hoàn thành vào tháng 8
năm 1956 ngay tại Sài Gòn, ở số nhà 29 đường Huỳnh Khương Ninh, quận 1
Sài Gòn, nay là Tp. HCM." [14].
Ý kiến chính thống của Đảng Cộng sản Việt Nam coi Lê Duẩn có tầm nhìn
chiến lược, có đóng góp nhiều cho đường lối chính trị quân sự của Đảng,
nhất là trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân và chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975 [15][16]
Pierre Asselin từng nhận xét về Lê Duẩn:
"Ông
khao khát quyền lực tuyệt đối. Thông qua việc cô lập ông Hồ, ông Giáp
và các đồng minh của họ trong đảng, ông Lê Duẩn đã thiết lập một bộ máy
lãnh đạo ở Hà Nội không chỉ trung thành mà còn chung quyết tâm hoàn tất
các mục tiêu cách mạng" [17]. Tuy nhiên Giáo sư
Nguyễn Quang Ngọc
phủ nhận cách nhìn này, theo đó vai trò của Tướng Giáp bị làm lu mờ bởi
những thành viên Bộ Chính trị trong giai đoạn cuộc chiến tranh Việt
Nam. Ông cũng cho rằng không hề có một sự phân chia ê-kíp trong nội bộ
Bộ Chính trị lúc bấy giờ, mà theo đó Tướng Giáp được cho là thuộc phái
"chủ hoà".
[18] Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng viết rằng: "
Với
tôi, những năm công tác trong Bộ Chính trị, Anh đã thường xuyên trao
đổi ý kiến, thường là nhanh chóng đi đến nhất trí trong những vấn đề
lớn; khi có ý kiến khác nhau thì tranh luận thẳng thắn, những điều chưa
nhất trí thì chờ thực tiễn kiểm nghiệm. Lúc mới ra Bắc, Anh thường tâm
sự với tôi những khó khăn trong công việc... Từ sau Đại hội III và Đại
hội IV, tôi đã ba lần đề nghị Anh là Tổng Bí thư kiêm luôn Bí thư Quân ủy Trung ương, nhưng Anh nói: “Anh là Tổng chỉ huy lâu năm nên tiếp tục làm Bí thư Quân ủy Trung ương, như vậy có lợi cho lãnh đạo”
[19].
Giáo sư Kinh tế
Đặng Phong nhận xét về Lê Duẩn: "
Thí
dụ khi nói về ông Lê Duẩn và các chủ trương làm chủ tập thể, xây dựng
cấp huyện... thì rõ ràng đó là các sai lầm gây thiệt hại rất lớn cho nền
kinh tế. Nhưng tôi vẫn kính trọng ông Duẩn là một nhà tư duy lớn, còn
những gì sai thì sau đó phải sửa, có gì là xúc phạm đâu ?"
[20].
Theo Giáo sư Tương Lai trích lại lời Giáo sư
Trần Phương, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ: “
Năm
1985, anh là người ghi vào Nghị quyết của Bộ Chính trị: "Chấp nhận kinh
tế nhiều thành phần”. Đó là những con chữ quan trọng để tạo đà cho Đại
hội VI Đổi Mới... Tầm nhìn xa của anh Ba về kinh tế, những viên gạch anh
lát cho con đường đổi mới, không nhiều người biết tới. Nhưng điều đó
cũng phù hợp với con người Anh. Chỉ cần mình làm điều tốt cho Đảng, cho
dân mà không cần nghĩ rằng có được ghi nhận hay không”. Theo GS Tương Lai: "
Đáng
tiếc là, những tư tưởng lóe sáng trong tư duy của nhà lý luận ấy đã bị
chìm đi trong vô vàn những bức xúc hàng ngày của thực trạng kinh tế đang
trong cái thế giằng co giữa cái cũ và cái mới. Ông không thể không gánh
chịu trách nhiệm về những hậu quả nặng nề của sự vận dụng những công
thức giáo điều trong mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội theo kiểu Stalin
hoặc của tư tưởng giáo điều “tả” khuynh khác, mặc dầu ông đã cố gắng để
vượt ra khỏi những áp đặt".
[21]
Giáo sư Trần Phương có thuật lại: "
Tôi nhớ có lần, vào một buổi
sáng, khi nhóm trợ lý chúng tôi đang họp, anh Ba đi vào “quẳng” xuống
bàn chúng tôi một tờ báo và nói: “Các anh đọc đi!”. Rồi anh nhếch mép
cười, đi ra... Chúng tôi cầm tờ báo lên: Trên trang nhất là một bài dài
phê phán anh Kim Ngọc
và quan điểm khoán hộ của anh. Có lần, tôi hỏi Anh: “Tại sao Anh không
công khai phản bác lại quan điểm bảo thủ của bài báo...”. Anh nói: “Quan
trọng nhất là phải giữ sự đoàn kết trong Đảng...”. Ông Trần Phương cũng cho rằng: "
Ai đó đã nói rằng anh Ba không bảo vệ được Kim Ngọc là không đúng. Sau bài báo đó, Kim Ngọc vẫn là Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú.".
[22].
Theo những người trợ lý thân cận nhất của ông kể lại thì thái độ của
ông đối với khoán ở Vĩnh Phúc (1966-1968) khác với nhiều người lúc đó.
Nhưng ông chưa kịp can thiệp thì đã có lệnh đình chỉ, mà đã có lệnh rồi
thì không thể đảo ngược lại được. Ông Đậu Ngọc Xuân là trợ lý của ông kể
lại:
Khi khoán Vĩnh Phúc đã bị đình chỉ, ông chỉ còn biết lên thăm
Kim Ngọc và bày tỏ sự đồng tình với những tìm tòi của Kim Ngọc, an ủi về
việc những sáng kiến quá mới như thế thường không dễ đi ngay vào cuộc
sống...
[23]
Theo lời của Trần Phương, Lê Duẩn từng nói với ông: "
Cầm quyền mà
không lo nổi cho dân một bộ quần áo thì cầm quyền là nghĩa thế nào? Anh
muốn làm gì thì làm nhưng phải lo đủ cho người dân một bộ quần áo... Tôi
vẫn nhớ, có lần trong những năm 60, trong một cuộc họp ở Đồ Sơn, Anh đã
nổi nóng với Chính phủ: “Chúng ta cầm quyền mà không lo nổi rau muống
và nước lã cho dân thì nên từ chức đi...”. Anh Tô (Phạm Văn Đồng)
không nói một lời. Tôi rất thông cảm với Anh về cái khó của Chính phủ.
Muốn có rau muống thì phải có gạo. Muốn có nước lã (nước máy) thì phải
có ngoại tệ. Cả hai thứ đó, Chính phủ đều gặp khó khăn".
[22]
David Elliott, trong quyển sách The Vietnamese War (2003), phê bình
chính sách kinh tế của những người cộng sản giai đoạn 1976-1986, mà đứng
đầu là Lê Duẩn, ông cho rằng "
họ thường là những người cứng rắn,
giáo điều và tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng. Nhưng đây không phải lúc
nào cũng là những người đủ khả năng đưa Việt Nam đi tiếp trên đường
phát triển."
[24]
Khi ông mất, Tổng Thư ký
Liên Hiệp Quốc khi đó đã điện "...
Ngài Tổng Bí thư Lê Duẩn, người đã giữ một vai trò hết sức quan trọng trong lịch sử của Việt Nam...”. (Điện của Tổng Thư ký liên hiệp quốc
Javier Pérez de Cuéllar.
[25]